Từ năm 2008 đến 2011, Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí thực hiện đề tài cấp bộ mang tên “Áp dụng kiến thức chăm sóc sức khoẻ trẻ sơ sinh vào thực tế để tăng cường sức khoẻ và giảm tử vong sơ sinh tại Quảng Ninh” (gọi tắt là Dự án NeoKIP). Dự án triển khai thành công và mang lại nhiều kết quả ý nghĩa, đặc biệt đã giảm 49% tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở những vùng thực hiện dự án.
|
Chăm sóc trẻ sơ sinh tại Khoa Nhi, Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí. Ảnh: Thu Nguyệt |
Năm 2006, trước khi triển khai Dự án NeoKIP, nhóm tác giả đề tài đã thực hiện một nghiên cứu điều tra cơ bản về sức khoẻ sơ sinh ở tất cả 14 địa phương trong tỉnh. Số liệu của điều tra cơ bản gồm số trường hợp sinh, nơi sinh, số trẻ sinh sống, số trường hợp tử vong sơ sinh, tử vong mẹ và các yếu tố liên quan đến chăm sóc sơ sinh của từng xã, huyện. Số liệu này được thu thập từ 205 cơ sở y tế và các cuộc phỏng vấn nhóm với 1.300 nhân viên y tế thôn, bản. Kết quả cho thấy: Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh trong toàn tỉnh là 16/1.000 trẻ sinh sống, cao gấp 4 lần so với số liệu của hệ thống báo cáo số liệu của tỉnh. Các huyện có tỷ lệ tử vong sơ sinh cao đa phần ở khu vực nông thôn, miền núi, như Tiên Yên, Bình Liêu, Ba Chẽ... Trẻ sơ sinh ở những gia đình sống xa cơ sở y tế, ở các gia đình dân tộc ít người có tỷ lệ tử vong cao. Kiến thức về chăm sóc sức khoẻ trẻ sơ sinh của cán bộ chăm sóc sức khoẻ ban đầu mới đạt 60% so với chuẩn quốc gia v.v..
Sau khi có kết quả điều tra trên, các huyện có tỷ lệ tử vong sơ sinh cao (trên 15/1.000 trẻ sinh sống) được tham gia Dự án NeoKIP, bao gồm 44 xã ở các địa phương: Uông Bí, Hoành Bồ, Vân Đồn, Tiên Yên, Bình Liêu, Ba Chẽ, Đầm Hà, Hải Hà. Bên cạnh đó, dự án cũng lựa chọn 46 xã trong tỉnh để đối chứng kết quả. Bằng phương pháp can thiệp dựa vào sự tham gia của cộng đồng, dự án đã thành lập ban chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em ở mỗi xã. Ban có 8 thành viên, gồm: 4 cán bộ trạm y tế, 1 cán bộ chính quyền, 1 cán bộ phụ nữ, 1 cán bộ dân số. Trong thời gian 3 năm triển khai dự án, ban đã kết hợp, lồng ghép hoạt động, tạo những điều kiện thuận lợi và sự hỗ trợ tập trung vào nâng cao sức khoẻ bà mẹ, trẻ sơ sinh tại địa phương mình. Từ đó, đã mang lại những thay đổi lớn về sức khoẻ bà mẹ và trẻ sơ sinh tại 44 xã được can thiệp so với 46 xã đối chứng. Một trong những kết quả được đánh giá là thành công nhất của dự án là đã giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh từ 19,1% (năm đầu thực hiện dự án) xuống còn 11,3% (ở năm thứ 3 thực hiện dự án) tại 44 xã; trong khi đó, tỷ lệ này ở 46 xã đối chứng là 18% và 21,1%. Tỷ lệ thai chết lưu cũng giảm, đồng thời tăng cường được công tác chăm sóc trước sinh, khi sinh cho phụ nữ; tăng cường kiến thức về chăm sóc sơ sinh cho cán bộ y tế cơ sở v.v..
Quá trình hoạt động 3 năm liên tục của Dự án NeoKIP đã cho thấy việc can thiệp bằng phương pháp tạo thuận lợi và dựa vào sự tham gia của cộng đồng đã mang lại kết quả giảm tử vong sơ sinh, giảm thai chết lưu và tăng cường các chỉ số chăm sóc liên tục cho người mẹ trước sinh, trong sinh tại khu vực các xã can thiệp so với các xã đối chứng. Sau khi dự án kết thúc, nhóm tác giả đã tiếp tục xây dựng đề cương nghiên cứu để đánh giá tính bền vững của NeoKIP, nhằm mang lại những bằng chứng khoa học, kinh nghiệm để khuyến cáo nhân rộng mô hình can thiệp NeoKIP tại Quảng Ninh cũng như các tỉnh khác trong cả nước. Đề tài khoa học này mang tên “Đánh giá tính bền vững của kết quả giảm tử vong sơ sinh, thai chết lưu - can thiệp dựa vào sự tham gia của cộng đồng (NeoKIP) tại Quảng Ninh”. Đây là đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, thực hiện trong thời gian 18 tháng (bắt đầu từ tháng 1-2014), được hai trường đại học: Dalarna và Uppsala (Thụy Điển) hỗ trợ kinh phí. Theo đánh giá của Hội đồng khoa học (Sở KH&CN) thì đây là đề tài mang tính thực tiễn cao, sản phẩm của đề tài có ý nghĩa lớn trong ngành Y tế, đặc biệt góp phần giảm tỷ lệ tử vong cho trẻ sơ sinh, nhất là ở các xã khó khăn, vùng xa trong tỉnh.
- Nguồn: báo quảng ninh (http://baoquangninh.com.vn) -