Xét nghiệm phosphatase kiềm (alp)
Phosphatase kiềm – Alkaline phosphatase (ALP) là các enzym ngoại bào liên kết màng xúc tác quá trình thủy phân monophosphate từ liên kết este trong điều kiện kiềm (pH 8 đến 10).
Các đồng phân phosphatase kiềm được mã hóa bởi bốn gen khác nhau:
+ Biến thể thận‑xương‑gan (mô không đặc hiệu)
+ Biến thể đường ruột
+ Biến thể nhau thai
+ Biến thể từ tế bào mầm (giống nhau thai)
Cấu trúc hoá học ALP
Có nhiều dạng khác nhau của ALP. Mỗi dạng có một cấu trúc hoá học khác nhau, gọi là một isoenzyme. Cấu trúc của các isoenzyme phụ thuộc vào các cơ quan, nơi mà chúng được sản xuất ra, ví dụ như isoenzyme ALP của gan và xương.
Hoạt độ của phosphatase kiềm có ở nhiều mô khác nhau nhưng nồng độ khác nhau và nồng độ cao nhất thường ở gan và xương. Mặc dù chưa hiểu rõ chức năng trao đổi chất chính xác của enzyme nhưng có vẻ như liên quan đến vận chuyển lipid trong ruột, quá trình vôi hóa trong xương và khả năng bảo vệ vật chủ thông qua quá trình khử phospho nội độc tố. Cũng có thể có một lượng rất nhỏ phosphatase kiềm trong ruột và sẽ tăng lên sau bữa ăn.
Vai trò quan trọng chính của việc định lượng ALP trong lâm sàng là để kiểm tra khả năng bị bệnh xương hoặc gan. Khoảng 95% lượng ALP toàn phần huyết thanh là có nguồn gốc từ xương và gan với tỷ lệ bằng nhau ở người trưởng thành.
ALP thường được sử dụng để theo dõi chuyển hoá xương ở bệnh nhân suy thận, bởi vì nó là một trong ít các chỉ dấu xương không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi chức năng thận.
ALP tăng cao trong bệnh Paget, ung thư xương.
Thiếu Vitamin D nồng độ ALP tăng 2-4 lần so với bình thường và giảm chậm trong quá trình điều trị.
ALP tăng nhẹ trong cường tuyến giáp trạng nguyên phát và thứ phát, loãng xương không phụ thuộc vào tuổi.
Giai đoạn phát triển sinh lý của xương, có hoạt độ ALP huyết thanh tăng, vì vậy, ALP trong huyết thanh trẻ đang lớn cao hơn 1.5 - 7 lần so với người trưởng thành và đạt đỉnh cao ở nữ sớm hơn ở nam.
Bất kỳ dạng tắc nghẽn đường mật nào đều khiến tế bào gan phải tổng hợp phosphatase kiềm, do đó hoạt độ của phosphatase kiềm trong huyết thanh tăng lên với tất cả các dạng ứ mật và đặc biệt là với bệnh vàng da tắc mật.
Đo hoạt độ ALP là một phần trong xét nghiệm đánh giá chức năng gan cơ bản khi bệnh nhân gặp phải một số dấu hiệu như vàng mắt, vàng da, đau bụng, nôn, buồn nôn…Góp phần chẩn đoán bệnh lý xơ gan, viêm gan, tắc mật, tắc ống dẫn mật, viêm túi mật,..
Nồng độ ALP tăng ít hơn trong xơ gan, viêm gan, sử dụng thuốc gây độc cho gan…
.jpg)
Tăng sinh lý hoạt tính phosphatase kiềm đôi khi xuất hiện ở trẻ em và thanh thiếu niên. Nguyên nhân do tăng hoạt độ của nguyên bào xương theo sau sự gia tăng nhanh quá trình phát triển xương. Ngoài ra, ở phụ nữ có thai ALP có tăng sinh lý không quá 2 lần giá trị bình thường. Tổng hoạt độ phosphatase kiềm giảm hiếm khi thấy ở huyết thanh người nhưng có thể xảy ra ở giảm phosphatase, bệnh đa u tủy có tổn thương tiêu xương, xuất hiện thứ phát do thiếu hụt hormone tăng trưởng hoặc trong suy tuyến cận giáp.
Giá trị bình thường (Khoảng tham chiếu): Bác sĩ sẽ đánh giá kết quả dựa trên tình trạng sức khoẻ, lứa tuổi, theo khuyến cáo của hãng Beckman Coulter, giá trị bình thường của ALP.

Hiện nay, xét nghiệm đo hoạt độ ALP đã và đang được triển khai thường quy tại Bệnh viện Việt Nam – Thuỵ Điển Uông Bí. Với hệ thống máy móc hiện đại, kết quả xét nghiệm được thực hiện, đánh giá và tư vấn bởi đội ngũ bác sĩ, kỹ thuật viên có trình độ chuyên môn cao, nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực khám chữa bệnh.