Giảm đau sau mổ đang ngày càng được nhiều người bệnh lựa chọn khi điều trị. Bởi lẽ nó đã mang lại cảm giác dễ chịu hơn, giúp quá trình hồi phục trở lên nhẹ nhàng hơn. Điều đó vô cùng ý nghĩa, đặc biệt là đối với những ca phẫu thuật lớn, người bệnh cao tuổi,…
Đau sau mổ! Nỗi lo lắng, sợ hãi
Đau sau mổ là tình trạng đau do tổn thương mô và thần kinh ở các tổ chức bị can thiệp, phản ứng viêm và các cơ quan lân cận bị ảnh hưởng bởi tác động của cuộc phẫu thuật. Trên 80% người bệnh sau quá trình phẫu thuật trải qua cơn đau cấp tính. Những cơn đau này nằm ở mức độ đau trung bình đến đau nặng.
Mức độ đau phụ thuộc vào tính chất, mức độ của phẫu thuật, kỹ thuật mổ và ngưỡng chịu đau (cảm nhận chủ quan) của người bệnh. Thông thường ở những kỹ thuật mổ can thiệp ít xâm lấn như mổ nội soi người bệnh sẽ cảm thấy đau ít hơn còn ở các trường hợp phẫu thuật hở với vết mổ lớn thường khiến người bệnh cảm thấy đau nhiều hơn, ảnh hưởng lớn đến khả năng hồi phục, tâm lý và cảm xúc của người bệnh.

Các bác sĩ thực hiện thủ thuật giảm đau sau mổ cho người bệnh
Ngoài những ảnh hưởng về tâm lý, tinh thần, đau còn khởi phát hàng loạt các rối loạn như ức chế hô hấp, tăng huyết áp, tăng nhịp tim, suy giảm miễn dịch, tăng nguy cơ đông máu… làm chậm quá trình phục hồi của người bệnh sau mổ. Một số trường hợp sau mổ không được chống đau tốt có khả năng trở thành đau mạn tính kéo dài người bệnh sẽ phải chịu suốt đời, dù vết mổ đã lành. Do vậy giảm đau là một thành phần thiết yếu trong chăm sóc người bệnh sau phẫu thuật, thúc đẩy sự hồi phục sau mổ và làm thay đổi cảm giác, cảm xúc khó chịu, khó ngủ, lo âu, trầm cảm.
Giảm đau sau mổ tại Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí
Giảm đau sau mổ đã và đang được áp dụng cho người bệnh sau mổ tại bệnh viện. Các ca phẫu thuật như chấn thương phức tạp, mổ đẻ, phẫu thuật ổ bụng… Khi sức khỏe người bệnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu sẽ được các bác sĩ áp dụng giảm đau sau mổ.
Đây là một phương pháp điều trị mang lại nhiều lợi ích cho người bệnh như: giúp người bệnh dễ chịu về thể xác và tinh thần, giúp người bệnh lấy lại trạng thái cân bằng tâm-sinh lý. Nâng cao chất lượng điều trị: giúp vết thương chóng lành, vận động sớm sau mổ, giảm nguy cơ tắc mạch, rút ngắn thời gian nằm viện. Giúp người bệnh sớm hồi phục sau mổ, có thể tự chăm sóc bản thân. Người bệnh sớm tập phục hồi chức năng, tránh diễn tiến thành đau mạn tính.