Hiện nay, liệu pháp oxy cao áp được ứng dụng vào trong điều trị các bệnh lý như: hỗ trợ bệnh ngoại khoa (Tổn thương do chèn ép và chỗ nối chi đứt rời, Sau cấy ghép da…), đỗ trợ điều trị mất ngủ, rối loạn tiền đình, thiếu máu não… Đặc biệt liệu pháp oxy cao áp đang được ứng dụng vào điều trị cho người bệnh đột quỵ (nhồi máu não).
Người bệnh được điều trị trong buồng oxy cao áp
Người bệnh nếu được đưa đến bệnh viện kịp thời và điều bằng oxy cao áp kết hợp với nội khoa, thì các triệu chứng cơ năng, khả năng phục hồi vận động cải thiện nhanh chóng hơn, tốt hơn, thời gian điều trị được rút ngắn.
Tại bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí, người bệnh sẽ được điều trị Oxy cao áp bằng cách thở oxy trong buồng cao áp giúp lượng oxy tăng gấp 10-13 lần bình thường và 6% thể tích oxy hòa tan trong huyết tương. Dưới tác dụng của môi trường áp suất cao, các phân tử oxy có khả năng dễ dàng hòa tan và làm tăng phân áp oxy trong huyết tương và tất cả các mô. Từ đó sẽ giúp cải thiện tổn thương ở não do đột quỵ thiếu máu não.
Hệ thống máy Oxy cao áp
Ở giai đoạn đầu người bệnh cần được đảm bảo hô hấp, tuần hoàn; kiểm soát tốt đường máu, huyết áp, tái tưới máu bằng phương pháp tiêu sợi huyết hoặc lấy huyết khối bằng dụng cụ, chống phù não,…
Phục hồi chức năng nên được thực hiện sớm, ngay khi người bệnh còn đang nằm trên giường bệnh, thường 24 - 48h sau đột quỵ sẽ là thời gian tốt nhất để điều trị cho người bệnh. Do vậy cần phát hiện sớm và nhanh chóng đưa người bệnh đến cơ sở y tế để điều trị kịp thời.
Các dấu hiệu và triệu chứng của nhồi máu não thường xuất hiện đột ngột:
- Liệt nửa người hoặc liệt 1 phần cơ thể, mất hoặc giảm cảm giác một bên cơ thể
- Mất thị lực một hoặc hai mắt, mất hoặc giảm thị trường, nhìn đôi (song thị).
- Liệt mặt
- Thất điều
- Chóng mặt (hiếm khi xuất hiện đơn lẻ).
- Thất ngôn
- Rối loạn ý thức đột ngột
Mục tiêu chính trong xử trí, điều trị đột quỵ thiếu máu não cấp là bảo tồn nhu mô não ở vùng giảm tưới máu nhưng bị hoại tử. Tế bào não trong khu vực này có thể được bảo tồn bằng cách khôi phục lưu lượng máu đến và tối ưu hóa tuần hoàn bàng hệ khu vực bị tổn thương.