Trong suốt thời kì mang thai, người phụ nữ có nhiều biến đổi về sinh lý và hormon. Hormon được sản xuất với số lượng lớn làm thay đổi chuyển hoá, sinh lý và hệ thống nội tiết. Do đó, giá trị tham chiếu trên phụ nữ mang thai khác so với phụ nữ không mang thai.
Những thay đổi trong thời kỳ mang thai:
+ Biến đổi nhẹ ở điện giải đồ.
+ Tăng đến 40% triglyceride, cholesterol, phospholipid, các acid béo.
+ Albumin huyết thanh giảm ở giai đoạn cuối, một vài protein vận chuyển trong huyết thanh tăng mạnh như protein vận chuyển hormon giáp, vận chuyển cortisol, vận chuyển hormon sinh dục.
Xét nghiệm máu khi mang thai giúp đánh giá tình trạng sức khỏe mẹ bầu và thai nhi, đồng thời dự đoán các nguy cơ cho thai kỳ (Hình ảnh minh hoạ)
+ Hoạt độ cholinesterase huyết thanh giảm, ALP tăng gấp 3 lần do tăng sinh nguồn gốc từ rau thai.
+ Phụ nữ mang thai tăng tỷ lệ lọc cầu thận GFR khoảng 170 mL/phút/1,73 m2 tuần thứ 20 do đó làm tăng độ thanh thải ure, creatinin và acid uric. Nồng độ những chất này có thể giảm nhẹ ở hầu hết phụ nữ mang thai. Sau đó GFR giảm về như phụ nữ bình thường có thể làm ure, creatinin tăng nhẹ ở 4 tuần cuối. Trong thời kỳ này, tái hấp thu acid uric ở ống thận tăng đáng kể làm tăng nồng độ acid uric trong huyết thanh so với phụ nữ không mang thai.
+ Progesteron có tác dụng làm ngăn cản sự bong ra của niêm mạc tử cung hay làm gián đoạn chu kỳ kinh nguyệt, bảo vệ thai nhi. Trong suốt thời kỳ thai nghén, hormon PTH của tuyến cận giáp tăng xấp xỉ 40%, nhưng hầu như không thay đổi nồng độ calci tự do trong máu. Calcitonin không tăng trong thai nghén nhưng 1,25-dihydroxyvitamin D tăng trong khi mang thai làm tăng hấp thu calci ở ruột. Điều này cho phép vận chuyển một lượng lớn calci đáp ứng nhu cầu phát triển của thai nhi.
+ Mặc dù tuyến giáp ở người mang thai hoàn toàn bình thường nhưng chức năng có nhiều thay đổi. Nồng độ Total T3, Total T4 tăng nhưng lại giảm nhẹ Free T4 ở giai đoạn 2-3 của thai kỳ và làm TSH tăng nhẹ. Thyroglobulin tăng đáng kể đặc biệt ở giai đoạn 3. Một số ít phụ nữ mang thai có biểu hiện cường giáp và rất hiếm gặp suy giáp. Rối loạn tạm thời chức năng tuyến giáp rất hay gặp và rất ít khi được phát hiện.
Xét nghiệm máu khi mang thai để đánh giá tình trạng sức khỏe mẹ bầu và thai nhi, đồng thời dự đoán các nguy cơ cho thai kỳ. Trên cơ sở kết quả xét nghiệm máu và kết quả thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng khác, bác sĩ sản khoa sẽ có hướng can thiệp nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra. Có rất nhiều loại xét nghiệm khác nhau mà mẹ bầu cần thực hiện trong suốt cả thai kỳ như:
+ Những xét nghiệm ngay sau khi biết mình mang thai sẽ giúp bác sĩ nắm được các thông tin cần thiết nhất về chỉ số sức khỏe của mẹ giúp cho quá trình theo dõi thai kỳ hiệu quả hơn (Nhóm máu, công thức máu, chức năng gan-thận, các chỉ số tuyến giáp, đường máu, nhóm mỡ…).
+ Tầm soát nguy cơ dị tật bẩm sinh ở thai nhi (Double test, Triple test, NIPT).
+ Xét nghiệm Đái tháo đường thai kỳ: Tiểu đường thai kỳ là bệnh lý được chẩn đoán vào giai đoạn 3 tháng giữa thai kỳ thông qua nghiệm pháp dung nạp đường huyết thực hiện vào tuần thứ 24-28. Thời gian thực hiện xét nghiệm là vào buổi sáng, sau khi mẹ bầu đã nhịn đói ít nhất 8 giờ và không quá 12 giờ.
+ Xét nghiệm nước tiểu trước khi sinh là phương pháp được thực hiện nhằm xác định sớm các dấu hiệu của những tình trạng bệnh lý tiềm ẩn, được phát hiện thông qua sự hiện diện của một số chất có trong nước tiểu. Giúp phát hiện sớm được nguy cơ nhiễm trùng đường tiểu, nguy cơ tiền sản giật, nguy cơ mắc các bệnh lý về thận, bàng quang hoặc hệ tiết niệu, đái tháo đường thai kỳ, dấu hiệu nhiễm trùng đường tiết niệu ….